Hành vi Fossa

Fossa hoạt động cả ngày lẫn đêm.

Fossa hoạt động suốt cả ngày lẫn đêm; đỉnh điểm hoạt động có thể diễn ra đầu buổi sáng, chiều muộn và đêm muộn.[15] Con vật thường không tái sử dụng vị trí ngủ, nhưng fossa cái với con non quay trở lại cùng hang ổ cũ.[15] Phạm vi cư trú của fossa đực tại rừng Kirindy lên đến 26 km2 (10 dặm vuông Anh) quy mô lớn, so sánh với 13 km2 (5,0 dặm vuông Anh) ở con cái. Những phạm vi chồng chéo-khoảng 30% theo số liệu từ khu rừng phía đông-nhưng fossa cái thường tách biệt phạm vi. Phạm vi cư trú gia tăng trong thời gian mùa khô, có lẽ do ít thức ăn và nước có sẵn. Nói chung, fossa đeo vòng cổ vô tuyến di chuyển giữa 2–5 km (1,2–3,1 dặm) mỗi ngày,[27] mặc dù trong một trường hợp báo cáo một con fossa quan sát được di chuyển khoảng cách đường thẳng 7 km (4,3 dặm) trong 16 giờ.[15] Mật độ quần thể con vật có vẻ thấp: tại rừng Kirindy, nơi loài khá phổ biến, mật độ ước tính đạt một con vật trên mỗi 4 km2 (1,5 dặm vuông Anh) vào năm 1998.[9] Một nghiên cứu khác tại khu rừng tương tự giữa năm 1994 và 1996 bằng cách sử dụng phương pháp đánh dấu và bắt lại chỉ ra mật độ quần thể của một con vật trên mỗi 3,8 km2 (1,5 dặm vuông Anh) và một con trưởng thành trên mỗi 5,6 km2 (2,2 dặm vuông Anh).[28]

Ngoại trừ Fossa mẹ đang chăm con non, thì thỉnh thoảng mới thấy nhiều cá thể đực quần tụ, nên loài này được xem là động vật đơn độc.[4][9][28] Tuy nhiên, một công bố năm 2009, báo cáo quan sát chi tiết về săn mồi phối hợp, theo đó ba con Fossa đực cùng săn bắt một con vượn cáo sifaka (Propithecus verreauxi) nặng 3 kg (6,6 lb) trong vòng 45 phút, sau đó chia sẻ con mồi. Hành vi này có thể là một dấu tích săn mồi tập thể từ loài vượn cáo lớn hơn tuyệt chủng gần đây.[29]

Fossa giao tiếp bằng âm thanh, mùi hương và các tín hiệu thị giác. Âm thanh phát ra gồm có tiếng rừ rừ, một tiếng kêu đe dọa,[4] một tiếng kêu sợ hãi, bao gồm "tiếng inh ỏi lặp lại, tiếng hít hồng hộc và tiếng thở hỗn hễn".[9] Một tiếng kêu ăng cao, dài có chức năng thu hút con Fossa khác. Fossa cái kêu meo meo vào mùa giao phối và con đực phát ra tiếng thở dài khi chúng đã tìm được một con cái.[4][9] Trong suốt cả năm, con vật tiết ra mùi hương đánh dấu lâu dài trên đá, cây cối, đất; chúng dùng các tuyến ở vùng hậu môn và trên ngực.[4][9][15] Chúng cũng liên lạc qua biểu hiện mặt và cơ thể, nhưng ý nghĩa các tín hiệu này không chắc chắn.[4] Con vật hung hãn chỉ khi vào mùa giao phối, con đực đánh nhau đặc biệt mạnh bạo. Sau một cuộc chiến ngắn, con vật thua cuộc chạy đi và con chiến thắng đuổi theo sau một khoảng cách ngắn.[4] Trong điều kiện nuôi nhốt, Fossa thường không hung hăng và đôi khi thậm chí cho phép người trông giữ sở thú vuốt ve chúng, nhưng con đực trưởng thành đặc biệt có thể cố gắng cắn trả.[16]

Chế độ ăn uống

Fossa là động vật ăn thịt săn con mồi kích thước từ nhỏ đến vừa. Là một trong tám loài ăn thịt đặc hữu của Madagascar, Fossa là động vật hữu nhũ trên cạn, đặc hữu, còn sống sót lớn nhất của hòn đảo này và loài săn mồi duy nhất có khả năng săn tất cả những loài vượn cáo trưởng thành còn tồn tại,[27][30] lớn nhất trong số đó có thể nặng đến 90% trọng lượng Fossa trung bình.[9][30] Mặc dù đây là loài vượn cáo ăn thịt chủ yếu,[30][31] báo cáo về thói quen ăn uống của loài chứng minh tính đa dạng khi chọn lọc con mồi và chuyên hóa phụ thuộc vào sinh cảnh và mùa; chế độ ăn uống không thay đổi theo giới tính. Trong khi Fossa được cho là chuyên ăn thịt vượn cáo tại công viên quốc gia Ranomafana,[32] chế độ ăn biến đổi nhiều hơn ở những sinh cảnh rừng mưa khác.

Chế độ ăn của fossa gồm có loài hữu nhũ kích thước từ nhỏ (vượn cáo chuột xám, bên trên) đến trung bình (Sifaka vương miện, bên dưới)

Chế độ ăn của Fossa trong tự nhiên được nghiên cứu bằng cách phân tích mẫu phân riêng biệt của chúng, giống hình trụ màu xám với điểm kết thúc xoắn và đo lường chiều dài 10–14 cm (3,9–5,5 in), dày 1,5–2,5 cm (0,6–1,0 in).[33] Mẫu phân thu thập và phân tích ở cả hai nơi, Andohahela và Andringitra, chứa chất liệu vượn cáo và động vật gặm nhấm. Quần thể phía đông Andringitra sáp nhập ghi chép độ đa dạng con mồi trải rộng nhất, bao gồm cả loài có xương sống lẫn không xương sống. Loài có xương sống bị ăn thịt dao động từ loài bò sát đến một loạt các loài chim, bao gồm cả chim sống trên cây tầng thấp hay trên mặt đất, động vật hữu nhũ, bao gồm động vật ăn côn trùng, gặm nhấm và vượn cáo. Loài xương sống mà Fossa ăn thịt tại vùng núi cao Andringitra bao gồm côn trùng và cua.[24][26] Một nghiên cứu chỉ ra rằng động vật có xương sống bao gồm 94% chế độ ăn của Fossa, trong đó vượn cáo chiếm hơn 50%, tiếp theo là tenrec (9%), thằn lằn (9%) và các loài chim (2%). Hạt cây chiếm 5% chế độ ăn, có thể có trong dạ dày của vượn cáo bị ăn thịt, hoặc có thể do Fossa ăn trái cây vắt nước, hạt cây thường xuất hiện hơn trong dạ dày vào mùa khô. Kích thước con mồi trung bình thay đổi về mặt địa lý; chỉ 40 gam (1,4 oz) ở vùng núi cao Andringitra, trái ngược với 480 gam (17 oz) tại rừng ẩm ướt và hơn 1.000 gam (35 oz) tại rừng rụng lá khô.[15] Theo một nghiên cứu về chế độ ăn của Fossa tại rừng rụng lá khô phía tây Madagascar, chiếm hơn 90% con mồi là loài có xương sống, hơn 50% là vượn cáo. Chế độ ăn chính chứa xấp xỉ sáu loài vượn cáo và hai hoặc ba loài thú tenrec gai, cùng với rắn và động vật hữu nhũ nhỏ.[33] Thông thường, con mồi Fossa là vượn cáo lớn và thú gặm nhấm ưu tiên con vật nhỏ.[34]

Fossa săn bắt mồi hoặc trên mặt đất hoặc trên cây. Vào mùa không sinh sản, Fossa săn mồi riêng lẻ, nhưng trong mùa sinh sản có thể săn mồi theo nhóm và chúng có thể bắt cặp Fossa mẹ cùng con non. Một thành viên nhóm leo lên cây và đuổi theo vượn cáo từ cây này sang cây khác, buộc chúng hạ xuống mặt đất, tại nơi khác có thể dễ dàng bắt giữ mồi.[15] Fossa có đặc điểm là mổ bụng con mồi vượn cáo lớn hơn chúng, cùng với mẫu phân riêng biệt, giúp xác định con mồi bị giết.[30] Quan sát lâu dài mô hình ăn thịt của Fossa ở rừng mưa cho biết rằng Fossa săn mồi trên một tiểu khu phạm vi của chúng cho đến khi mật độ con mồi giảm, sau đó chuyển đi.[35] Fossa cũng săn vật nuôi nhà như con mồi, chẳng hạn dê và bò nhỏ, đặc biệt gà nhà. Trong điều kiện nuôi nhốt, thức ăn của Fossa bao gồm loài lưỡng cư, chim, côn trùng, bò sát và động vật hữu nhũ kích thước từ nhỏ đến trung bình.[4]

Ở nhiều sinh cảnh rừng mưa khác nhau, sự đa dạng con mồi xuất hiện tương tự như thành phần chế độ ăn đa dạng ghi chép được[24][26] diễn ra ở rừng khô phía tây Madagascar, cũng như vậy. Là động vật ăn thịt đặc hữu lớn nhất trên đảo Madagascar, chế độ ăn linh động kết hợp với mô hình hoạt động linh hoạt[27] cho phép loài khai thác một loạt môi trường sống có sẵn khắp hòn đảo,[24][26] khiến chúng trở thành loài chủ chốt tiềm năng cho hệ sinh thái Madagascar.[23]

Sinh sản

Minh họa Fossa vào khoảng năm 1927

Hầu hết đặc tính sinh sản trong quần thể hoang dã ở rừng rụng lá khô miền tây; xác định dù chắc chắn đặc tính thích hợp với quần thể miền đông hay không sẽ được yêu cầu nghiên cứu chuyên môn thêm nữa.[15] Giao phối thường diễn ra vào thời gian tháng Chín và tháng Mười,[4] mặc dù có những báo cáo diễn ra đến tận cuối tháng mười hai,[15] có thể đáng chú ý cao.[9] Trong điều kiện nuôi nhốt tại bắc bán cầu, Fossa thay vì giao phối vào mùa xuân phía bắc, từ tháng ba-tháng bảy.[16] Quan hệ giao phối thường diễn ra trên cành cây lớn nằm ngang cách mặt đất khoảng 20 m (66 ft). Thường xuyên sử dụng lại cùng cành cây đó vào năm sau, với độ chính xác đáng kể như ngày mà mùa giao phối khởi đầu. Cây xanh thường gần nguồn nước, cành cây đủ khỏe và đủ rộng để hỗ trợ cho cặp đôi giao phối, rộng khoảng 20 cm (7,9 in). Cũng có báo cáo một vài cặp giao phối trên mặt đất.[15]

Nhiều đến tám con đực sẽ xuất hiện tại một vị trí giao phối, lưu trú ở vùng lân cận gần với con cái tiếp nhận. Con cái dường như chọn con đực giao phối với nó, con đực cạnh tranh sự chú ý của con cái bằng một lượng đáng kể xướng âm và tương tác đối kháng. Con cái có thể chọn giao phối với vài con đực, lựa chọn giao phối của nó dường như không có bất kỳ mối tương quan nào với diện mạo thể chất con đực.[15] Để kích thích con đực gắn kết với mình, con cái phát ra một loạt âm thanh meo meo. Con đực trèo lên từ phía sau, dựa cơ thể mình hơi lệch tâm vào con cái,[15] vị trí đòi hỏi cân bằng khéo léo; nếu con cái đứng lên, con đực sẽ gặp khó khăn đáng kể khi tiếp tục. Nó đặt bàn chân của mình trên vai con cái[9] hoặc túm chặt xung quanh eo và thường liếm cổ con cái.[15] Giao phối có thể kéo dài gần ba giờ.[21] Cuộc giao phối kéo dài bất thường này do bản chất cơ thể khi dương vật con đực cương lên, dương vật có gai trỏ ngược dọc theo toàn bộ chiều dài.[21] Fossa giao phối bao gồm một dây nối giao cấu,[15] có thể bị dương vật gai của con đực thúc ép.[21] Dây nối khó đứt gãy nếu phiên giao phối bị gián đoạn.[15] Giao phối với con đực duy nhất có thể lặp đi lặp lại nhiều lần, tổng thời gian giao phối lên đến 14 giờ, trong khi con đực đó có thể ở lại cùng bạn tình nó cho đến một giờ sau khi giao phối. Một con cái đơn lẻ có thể chiếm giữ cây xanh cho đến một tuần, giao phối với nhiều con đực hơn thời điểm đó. Ngoài ra, những con cái khác có thể sắp xếp địa điểm của mình, giao phối cùng vài con đực tương tự chẳng khác gì những con khác.[15] Chiến lược giao phối này, theo đó Fossa cái độc quyền một vị trí và tối đa hóa số lượng bạn tình có sẵn, dường như độc nhất trong số loài ăn thịt. Nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng hệ thống này giúp Fossa khắc phục các yếu tố thường cản trở chúng tìm bạn tình, chẳng hạn mật độ quần thể thấp hay thiếu hang ổ.[36]

Lứa sinh nở từ một đến sáu[17] (đặc thù từ hai đến bốn)[4] diễn ra tại một địa điểm bí mật, chẳng hạn như hang ổ ngầm, gò mối, khe đá hoặc trong thân cây rỗng lớn[15] (phần lớn những cây thuộc chi Commiphora).[9] Trái ngược nghiên cứu cũ, lứa đẻ hỗn hợp giới.[4][15] Fossa non sinh ra vào tháng 12 hoặc tháng giêng, khiến thai kỳ kéo dài 90 ngày,[4] theo báo cáo giao phối muộn chỉ ra một thời kỳ mang thai khoảng sáu đến bảy tuần.[15] Fossa sơ sinh mù lòa, chưa mọc răng và cân nặng không quá 100 g (3,5 oz).[4][15] Lớp lông mỏng, có màu xám nâu[16] hoặc gần như trắng.[15] Sau khoảng hai tuần thú con mở mắt,[4][16] chúng trở nên linh động hơn, lớp lông tối dần đến màu xám ngọc trai.[15] Thú con không ăn thức ăn rắn cho đến lúc ba tháng tuổi,[21] không rời khỏi hang ổ cho đến lúc 4,5 tháng tuổi; chúng được cai sữa ngay sau đó.[4][15] Sau năm đầu tiên, thú con chưa trưởng thành độc lập với mẹ chúng.[15] Răng vĩnh cửu xuất hiện khi đạt 18 đến 20 tháng tuổi.[4][15] Trưởng thành thể chất đạt được vào khoảng hai năm tuổi,[21] nhưng thuần thục sinh dục không đạt đến khi một hoặc hai năm sau,[4][15] Fossa trẻ có thể ở lại với mẹ chúng đến lúc hoàn toàn trưởng thành. Tuổi thọ nuôi nhốt lên đến hoặc trải qua 20 năm tuổi, có thể do động vật non phát triển chậm.[17]

Liên quan

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Fossa //www.amazon.com/dp/B0006FE92Y //www.amazon.com/dp/B000LPMXS6 http://www.britannica.com/EBchecked/topic/214490 http://discovermagazine.com/2000/apr/featdeadliest http://erikpatel.com/Patel%202005_predation.pdf http://www.google.com/books?id=JgAMbNSt8ikC&pg=PA5... http://www.lynxeds.com/hmw/species-accounts/hmw-1-... http://www.gtoe.de/public_html/publications/pdf/1-... http://www.departments.bucknell.edu/biology/resour... http://www.bucknell.edu/msw3/browse.asp?id=1400044...